Emily trên dải cầu vồng
Phan_8
Trong trí nhớ của Emily, những cuộc trò chuyện trong phòng khách giữa cô và bà Elizabeth chẳng được dễ chịu gì cho cam. Có vắt óc mãi cô cũng không nghĩ ra được dạo gần đây có việc gì, đã hoàn thành cũng vậy mà vẫn đang dang dở cũng vậy, có khả năng dẫn đến cuộc nói chuyện này, dầu vậy cô vẫn run run đi vào phòng khách: cho dù bà Elizabeth định nói gì với cô thì ắt hẳn đó cũng là chuyện đặc biệt quan trọng, nếu không đã chẳng cần phải nói trong phòng khách. Đây chỉ là một trong những thói quen vặt vãnh của bà Elizabeth thôi. Daffy, con mèo to xác, lẻn vào bên cạnh cô như một cái bóng xám lặng lẽ. Cô hy vọng bà Elizabeth sẽ không đuổi nó ra; có nó bên cạnh cô thì cô sẽ được trấn an phần nào: một con mèo luôn là kẻ hậu thuẫn hiệu quả, miễn nó đứng về phe ta!
Bà Elizabeth đang đan; bà trông có vẻ nghiêm nghị nhưng không có dấu hiệu khó chịu hay giận dữ. Bà chẳng buồn quan tâm đến Daff, chỉ thầm nghĩ Emily nhìn mới cao làm sao khi đứng giữa căn phòng lâu đời trang nghiêm dưới ánh chiều chạng vạng. Bọn trẻ con cứ gọi là lớn nhanh như thổi! Dường như mới ngày hôm kia thôi, Juliet xinh đẹp, thẳng thắn... bà Elizabeth Murray kiên quyết gạt hết những suy nghĩ của mình sang một bên.
“Ngồi xuống đi, Emily,” bà nói. “Ta có chuyện cần nói với cháu.”
Emily ngồi xuống. Daffy cũng bắt chước theo, khoan khoái cuộn đuôi lại quanh chân. Emily đột nhiên có cảm giác tay nhớp nháp, miệng khô khốc. Cô chỉ ước gì lúc này mình cũng đang đan lát. Thật khó chịu làm sao khi cứ ngồi thừ ra ở đây, chẳng có việc gì làm, băn khoăn không biết sắp có chuyện gì sắp xảy ra. Chuyện đã xảy ra lại là điều cô chưa bao giờ nghĩ đến. Bà Elizabeth, sau khi thong thả đan xong một vòng tròn trên chiếc tất của bà, nói thẳng vào vấn đề:
“Emily, tuần tới cháu có muốn đến Shrewsbury không?”
Đến Shrewsbury? Cô có nghe nhầm không vậy?
“Ôi, bác Elizabeth!” cô thốt lên.
“Ta đã bàn bạc rất kỹ chuyện này với các bác của cháu,” bà Elizabeth nói. “Mọi người đều đồng ý với ta rằng cháu nên được học lên cao hơn. Tất nhiên sẽ tốn một khoản chi phí đáng kể... không, đừng ngắt lời ta. Ta không thích bị ngắt lời đâu... nhưng bác Ruth sẽ trả một nửa phí tổn, coi như đóng góp nuôi dưỡng cháu... Emily, đừng có ngắt lời ta! Bác Oliver sẽ trả nốt phần phí tổn còn lại; bác Wallace sẽ chu cấp sách vở cho cháu, còn ta sẽ phụ trách khoản quần áo. Tất nhiên, cháu sẽ tùy sức mà giúp bác Ruth chăm lo nhà cửa, coi như phần nào đền đáp lại lòng tốt của bác ấy. Chỉ cần đáp ứng được điều kiện đưa ra, cháu sẽ được tới Shrewsbury ba năm.”
Điều kiện gì đây? Emily - chỉ muốn nhảy múa ca hát và cười lên khanh khách khắp căn phòng khách lâu đời vốn xưa nay chưa từng có bất kỳ người nhà Murray nào, kể cả mẹ cô, dám to gan nhảy múa cười đùa trong đó – đành miễn cưỡng ép mình ngồi thẳng đơ như pho tượng trên chiếc ghế đệm và thầm hỏi mình câu hỏi đó. Trong sự chờ đợi hồi hộp, cô phần nào cảm thấy thời khắc này xem ra cũng khá kịch tính.
“Ba năm ở Shrewsbury,” bà Elizabeth tiếp tục, “cũng sẽ ích lợi với cháu chẳng kém gì ba năm ở Queen; tất nhiên, ngoại trừ việc cháu sẽ không lấy được chứng nhận hành nghề giáo viên, mà với cháu thì chuyện đó cũng chẳng thành vấn đề, cháu đâu có tự mình kiếm sống. Nhưng, như ta đã nói đó, sẽ có một điều kiện.”
Tại sao bác Elizabeth không nói luôn xem điều kiện đó là gì? Emily gần như không thể chịu đựng nổi sự chờ đợi hồi hộp này nữa. Liệu có khả năng bà Elizabeth phần nào e ngại việc nhắc đích xác cái điều kiện đó không? Chuyện trò câu giờ không phải là thói quen của bà. Lẽ nào nó khủng khiếp đến thế ư?
“Cháu phải hứa,” bà Elizabeth nghiêm nghị nói, “rằng trong suốt ba năm ở Shrewsbury, cháu sẽ từ bỏ hoàn toàn việc viết lách vớ vẩn của cháu... hoàn toàn, ngoại trừ những bài luận mà có lẽ nhà trường sẽ yêu cầu.”
Emily ngồi bất động... và bình tĩnh. Một bên là không Shrewsbury; còn một bên, không còn thơ, không còn những câu chuyện và “nghiên cứu”, không còn những cuốn sổ Jimmy thú vị đa dạng sắc màu. Cô không cần thêm một giây phút nào để cân nhắc quyết định của mình.
“Cháu không hứa thế được, bác Elizabeth ạ,” cô nói kiên quyết.
Bà Elizabeth sửng sốt đánh rơi cả mảnh tất đang đan. Bà không ngờ sẽ có chuyện này. Bà cứ đinh ninh rằng với khát khao được tới Shrewsbury ấy, Emily sẽ sẵn sàng chấp nhận bất kỳ điều kiện nào để đổi lấy cơ hội được đi, nhất là một điều kiện vặt vãnh như thế, vốn theo bà Elizabeth thì chỉ thuần túy liên quan đến việc dẹp bỏ thói bướng bỉnh đi thôi.
“Ý cháu là cháu sẽ không từ bỏ việc viết lách vớ vẩn của cháu để đổi lấy sự giáo dục mà lúc nào cháu cũng giả vờ là vô cùng mong muốn?” bà tra vấn.
“Không phải cháu không làm mà chỉ là cháu không thể,” Emily giải thích, đầy thất vọng. Cô đã biết rõ bà Elizabeth có lẽ sẽ không hiểu được, bà Elizabeth vốn chẳng bao giờ hiểu được điều này. “Cháu không thể không viết được, bác Elizabeth. Nó ăn vào trong máu của cháu rồi. Ép buộc cháu cũng chẳng ích lợi gì cả. Cháu muốn được đi học thật, không phải chuyện giả vờ, nhưng cháu không thể đánh đổi bằng việc từ bỏ chuyện viết lách. Cháu không thể giữ được một lời hứa như thế, vậy thì có hứa cũng được việc gì đâu ạ?”
“Vậy thì cháu cứ ở nhà đi,” bà Elizabeth giận dữ nói.
Emily những tưởng bà sẽ đứng dậy bước ra khỏi phòng. Ấy vậy nhưng bà Elizabeth lại nhấc cái tất lên và trở lại công việc đan lát trong tâm trạng vô cùng phẫn nộ. Thành thật mà nói, bà Elizabeth cảm thấy sửng sốt đến mức phi lý. Bà thật lòng muốn cho Emily đến Shrewsbury. Truyền thống đòi hỏi rất nhiều ở cô, và hết thảy mọi người trong nhà đều cho rằng họ nên cho cô đi. Chính bà là người đưa ra ý tưởng về điều kiện này. Bà tưởng rằng đây là một cơ hội tốt để dẹp bỏ thói quen ngu ngốc lãng phí thời gian và tiền bạc không – giống – người – nhà – Muray chút nào, và bà không mảy may nghi ngờ sự thành công của kế hoạch này, vì bà biết rõ Emily muốn đi như thế nào. Ấy vậy mà giờ thì xem cái con bé bướng bỉnh vô ơn bạc nghĩa, ngu ngốc thiếu lý trí này đi – “bản chất Starr đang lộ ra rồi đấy,” bà Elizabeth hậm hực nghĩ, chẳng còn nhớ gì đến cái dòng máu Shipley vẫn đang chảy trong huyết quản cô! Bà biết làm gì đây? Đúc rút từ chính kinh nghiệm bản thân, bà biết quá rõ một khi Emily đã hạ quyết tâm thì chẳng gì có thể lay chuyển được cô, và bà cũng biết rõ mặc dù cả ông Wallace, ông Oliver lẫn bà Ruth đều giống như bà, luôn cho rằng niềm đam mê viết lách của Emily quá ngốc nghếch và phi truyền thống, nhưng họ sẽ không ủng hộ yêu cầu của bà – Elizabeth. Bà Elizabeth Murray nhìn thấy rõ thể nào mọi người cũng sẽ quay lưng hoàn toàn lại với bà, và bà Elizabeth Murray cũng không thích viễn cảnh này chút nào. Nhẽ ra bà phải lay chuyển được, với thái độ tự nguyện, đứa bé gầy gò xanh xao đang ngồi trên cái ghế đệm ngay trước mặt bà kia. Đứa bé ấy yếu ớt đến thế, thơ trẻ đến thế, ấy vậy nhưng cũng khó lay chuyển đến thế. Suốt ba năm qua, bà Elizabeth Murray đã nỗ lực chữa trị thói viết lách dại dột, ngốc nghếch này của Emily, nhưng cũng bằng ấy năm, bà, một con người trước nay chưa từng thất bại trước bất kỳ việc gì, lại không thể thực hiện được điều này. Đâu thể dùng cách bỏ đói hòng khuất phục cô; mà ngoài biện pháp đó ra thì có vẻ chẳng còn cách nào hiệu quả cả.
Bà Elizabeth giận dữ ngồi đan, trong khi Emily ngồi bất động, vật lộn với cảm giác thất vọng cay đắng đan xen lẫn nỗi ấm ức trước sự bất công. Cô đã hạ quyết tâm sẽ không khóc trước mặt bà Elizabeth, nhưng thật khó lòng nuốt ngược nước mắt vào trong. Cô chỉ mong sao Daff đừng có gừ gừ với cái vẻ thỏa mãn lồ lộ như thế, cứ như thể trong mắt của một chú mèo xám, hết thảy sự đời đều vô cùng hoàn hảo vậy. Cô ước gì bà Elizabeth bảo cô đi ra ngoài. Nhưng bà Elizabeth lại chỉ giận dữ ngồi đan chẳng nói chẳng rằng. Toàn bộ sự việc này phần nào giống như một cơn ác mộng. Gió đang mạnh dần lên, mưa bắt đầu quật vào ô cửa sổ, và dường như bao thế hệ Murray đã yên nghỉ trong cõi vĩnh hằng đang từ những khung ảnh tối màu nhìn xuống bằng ánh mắt khiển trách. Họ không hề cảm thông với những ánh chớp, những cuốn sổ Jimmy cũng như những con đường Alps; không hề cảm thông với nỗ lực theo đuổi những thứ cao sang thần thánh dù cám dỗ nhưng chẳng mấy thuận tai quen mắt. Nhưng, bất chấp cảm giác thất vọng đang chất chứa trong lòng, Emily vẫn không thể không nghĩ rằng tình huống này mà được vận dụng vào một cảnh bi kịch trong tiểu thuyết thì thật tuyệt vời biết nhường nào.
Cửa mở và ông Jimmy khẽ khàng bước vào. Ông Jimmy đã biết rõ sắp có chuyện gì và nãy giờ vẫn chủ tâm bình tĩnh lắng nghe đằng sau cánh cửa. Ông biết Emily sẽ không đời nào hứa hẹn một chuyện như thế; ông từng nói với bà Elizabeth như vậy tại cuộc họp gia đình mười ngày trước. Ông chỉ là đơn giản là Jimmy Murray, nhưng ông hiểu một điều mà bà Elizabeth Murray khôn ngoan không tài nào hiểu được.
“Có chuyện gì vậy?” ông hỏi, đưa mắt từ người này sang người kia.
“Chẳng có chuyện gì cả,” bà Elizabeth ngạo mạn nói. “Ta vừa đề nghị sẽ cho Emily đi học, và con bé đã từ chối rồi. Tất nhiên, con bé muốn làm gì thì cứ tùy ý thôi.”
“Ai mà tùy ý nổi khi sau lưng có đến cả nghìn bậc tổ tiên chứ,” ông Jimmy nói bằng chất giọng kỳ dị vốn vẫn được ông sử dụng mỗi lần nói đến những vấn đề kiểu này. Cách nói đó lần nào cũng khiến bà Elizabeth rùng cả mình; bà không bao giờ có thể quên được sự kỳ dị của ông chính do lỗi của bà mà ra cả. “Emily không thể hứa như chị mong muốn được. Cháu có hứa được không, Emily?”
“Không ạ.” Cho dù đã cố kiềm chế, hai giọt nước mắt to tướng vẫn lăn xuống hai bên má Emily.
“Nếu cháu có thể,” ông Jimmy nói, “cháu sẽ hứa chuyện đó vì ta chứ, đúng không?”
Emily gật đầu.
“Chị đòi hỏi quá đáng quá, Elizabeth,” ông Jimmy nói với người phụ nữ đang giận dữ ngồi đan. “Chị đòi hỏi con bé phải từ bỏ hoàn toàn đam mê viết lách... này nhé, giả sử chị chỉ yêu cầu nó từ bỏ một phần nào đó thôi thì sao... Emily này, nếu bác ấy chỉ yêu cầu cháu từ bỏ một phần nào đó thôi thì sao? Cháu có thể làm được không?”
“Một phần nào là sao ạ?” Emily thận trọng hỏi.
“Chà, ví như bất kỳ thứ gì không phải sự thực chẳng hạn.” Ông Jimmy rụt rè bước đến chỗ Emily rồi đặt một bàn tay lên vai cô vẻ khẩn nài. Bà Elizabeth vẫn không ngơi tay đan, nhưng đường đan đã chậm rãi hẳn lại. “Ví như những câu chuyện chẳng hạn, Emily. Bác ấy đặc biệt không thích những câu chuyện cháu sáng tác ra. Bác ấy nghĩ chúng chỉ thuần là dối trá. Bác ấy không mấy quan tâm đến những thứ khác. Cháu không nghĩ là cháu có thể từ bỏ việc viết truyện trong ba năm sao, Emily? Được học tập là một điều tuyệt vời. Chỉ vì muốn được đi học mà bà Archibald của cháu đã phải tằn tiện vất vả lắm đấy; ta đã nghe bà kể lại chuyện đó không ít lần rồi. Thế nào, Emily?”
Emily nghĩ nhanh trong đầu. Cô thích sáng tác truyện: thật khó lòng từ bỏ việc đó. Nhưng nếu mỗi khi cảm hứng dâng trào, cô vẫn có thể viết lại bằng thơ những tưởng tượng bay bổng của mình... và còn cả những phác thảo nhân vật khác thường trong cuốn sổ Jimmy... ghi chép về các sự kiện xảy ra trong ngày... dí dỏm... châm biếm... bi thảm... thì có lẽ cô vẫn có thể chịu đựng được.
“Thử thuyết phục bác ấy đi, thử thuyết phục đi,” ông Jimmy thì thầm. “Xoa dịu bác ấy một chút. Cháu nợ bác ấy nhiều lắm, Emily ạ. Nhượng bộ bác ấy đi.”
“Bác Elizabeth,” Emily rụt rè nói. “Nếu bác cho cháu đến Shrewsbury, cháu hứa trong vòng ba năm sẽ không viết bất cứ thứ gì không đúng sự thực. Thế có được không ạ? Bởi vì cháu chỉ có thể hứa được đến thế thôi.”
Bà Elizabeth đan nốt hai vòng tất nữa rồi mới hạ cố đáp lời. Cả ông Jimmy lẫn Emily đều tưởng bà sẽ chẳng thèm đáp lại. Ấy thế nhưng bà đột nhiên gấp hết đồ đan lại và đứng dậy.
“Rất tốt. Cứ làm như thế đi. Tất nhiên, ta phản đối nhiều nhất là những câu chuyện của cháu: về những thứ còn lại, ta nghĩ là bác Ruth sẽ chăm lo cẩn thận khiến cháu chẳng còn thời gian đâu mà lãng phí vào chúng nữa.”
Bà Elizabeth đường bệ bước ra ngoài, lòng thầm nhẹ nhõm vô cùng vì bà đã không phải gánh chịu thất bại thảm hại, mà vẫn được chiếu cố để có thể rút lui trong danh dự khỏi một tình huống phức tạp. Ông Jimmy vỗ vỗ mái đầu đen nhánh của Emily.
“Tốt lắm, Emily. Cháu biết đấy, bướng bỉnh quá là không được. Và ba năm có phải là cả đời đâu, mèo con.”
Không phải là cả đời thật: nhưng đối với một đứa trẻ mới mười bốn tuổi đầu thì cũng có khác gì đâu. Tối đó, lúc đã lên giường, Emily khóc thầm cho tới tận khi chìm vào giấc ngủ; và rồi, tỉnh dậy lúc ba giờ sáng, giữa đêm khuya tối đen như mực, gió vần vũ thét gào trên bãi biển phương Bắc không biết đã qua bao đời người, cô nhỏm dậy, thắp một ngọn nến rồi ngồi vào bàn, mô tả lại toàn bộ cảnh huống này trong cuốn sổ Jimmy; cân nhắc từng từ từng chữ cốt sao cho không lời nào viết ra lại không phản ánh nghiêm ngặt thực tế!
Chương 6: Những ngày đầu ở Shrewsbury
Teddy, Ilse và Perry reo lên mừng rỡ khi Emily báo tin cô sẽ tới Shrewsbury. Ngẫm đi ngẫm lại, Emily cũng thấy khá vui. Điều tuyệt vời là cô sẽ được học trung học. Cô không hào hứng gì với chuyện phải ăn nhờ ở đậu tại nhà bà Ruth. Đây là chuyện không ngờ mà tới. Cô vẫn cho rằng bà Ruth sẽ không đời nào sẵn lòng chấp nhận cho cô ở cạnh, và cô cũng luôn đinh ninh rằng nếu có quyết định cho cô đến Shrewsbury chăng nữa thì bà Elizabeth hẳn cũng sẽ cho cô trọ ở chỗ khác… có thể là với Ilse. Chắn chắn, cô thích phương án này hơn nhiều. Cô biết khá rõ cuộc sống sẽ chẳng thể dễ dàng khi sống dưới mái nhà bà Ruth. Ấy là chưa kể cô còn không được phép viết truyện nữa.
Cảm thấy nỗi khát khao sáng tạo thiêu đốt trong tâm nhưng lại bị cấm thể hiện ra ngoài; nỗi vui mừng râm ran khi thai nghén được trong óc những nhân vật hài hước hay đầy kịch tính, ấy vậy nhưng lại bị cấm mang lại sự sống cho chúng; đột nhiên choáng ngợp bởi ý tưởng về một cốt truyện xuất sắc, ấy vậy nhưng ngay lập tức lại nhận ra rằng ta chẳng thể phát triển nó được. Toàn bộ những điều này chính là một sự tra tấn chẳng ai có thể ý thức được, ngoại trừ những người có khao khát sáng tác bẩm sinh. Hết thảy các bà Elizabeth trên đời này cũng chẳng bao giờ hiểu được điều đó. Với họ, đây chỉ được coi là sự ngu ngốc thuần túy.
Hai tuần cuối tháng Tám ấy, trang trại Trăng Non chìm trong bầu không khí tất bật. Bà Rlizabeth và bà Laura bàn đi bàn lại không biết bao nhiêu lần về chuyện váy vóc của Emily. Cô phải có trang phục không làm mất thể diện nhà Murray, nhưng một tiêu chuẩn chọn lựa nữa là phải mang tính thường thức và không thời thượng. Bản thân Emily không được đóng góp ý kiến trong vấn đề này. Một hôm, bà Laura và bà Elizabeth đã tranh luận “từ giữa trưa cho tới tận chiều tối ướt đẫm sương” về việc liệu Emily có được phép có một chiếc áo lụa hay không – Ilse có ba cái – rồi cuối cùng quyết định bỏ phiếu chống trước nỗi thất vọng vô bờ của Emily. Nhưng bà Laura có cách nghĩ riêng liên quan đến cái mà bà không dám gọi thẳng ra là “váy dạ hội”, vì chỉ cần bà Elizabeth nghe thấy cái tên đó thôi thì số phận của nó sẽ được định đoạt xong xuôi vô phương cứu vãn: cái váy bằng vải sa xinh đẹp vô cùng, màu xám phớt hồng – tôi cho rằng đây chính là cái sắc màu mà thời đó người ta gọi là tro của hoa hồng; không cổ - quả là một bước nhượng bộ vĩ đại của bà Elizabeth; với hai ống tay áo phồng to ắt hẳn vào thời này sẽ khiến người ta thấy chướng mắt lắm, nhưng vào thời đó, giống như mọi xu hướng thời trang khác, lại vừa đẹp vừa duyên khi được khoác trên người một cô gái xinh xắn. Đây là cái váy đẹp nhất Emily từng có trong đời; và lại còn dài nhất nữa, một đặc điểm mang ý nghĩa vô cùng lớn lao vào thời kỳ đó, vì người ta chỉ được coi là trưởng thành khi đã được mặc váy “dài”. Váy dài chấm đôi mắt cá chân xinh đẹp của cô.
Một tối, trong lúc và Laura và bà Elizabeth đều đang đi vắng, cô đã mặc chiếc váy đó, bởi hy vọng chú Dean sẽ được nhìn thấy cô trong trang phục này. Ông dành cả buổi tối đến chơi cùng cô – ngày hôm sau ông sẽ khời hành, quyết định lên đường đi Ai Cập – và họ cùng dạo bước trong vườn. Emily cảm thấy mình chín chắn và sành điệu hẳn, vì cô phải nhấc cái chân váy đẹp lung linh lên để không dính vào đám cỏ hoàng yến. Cô quấn quanh đầu chiếc khăn nhỏ màu hồng phớt xám, và dưới con mắt của ông Dean thì cô quả là giống một vì sao hơn bao giờ hết. Hai con mèo đi hộ tống – Daffy, chú mèo mướp lông bóng mượt và Sal Ngổ Ngáo, cho đến giờ vẫn đang nắm quyền thống trị trên khắp các kho chuồng ở trang trại Trăng Non. Bọn mèo đến rồi lại đi, nhưng Sal Ngổ Ngáo thì mãi mãi vẫn luôn ở đó. Hai con mèo tung tăng đùa nghịch trên các luống cỏ, núp sau các bụi hoa rậm rạp rồi nhảy chồm lên người nhau, luồn lách chạy quanh chân Emily. Ông Dean sắp đi Ai Cập, nhưng ông hiểu rõ mười mươi rằng cho dù ở bất cứ nơi nào, thậm chí ngay giữa bầu không khí mê hoặc huyền bí của những đế quốc đã chìm vào quên lãng, ông cũng không chứng kiến được bất cứ điều gì khiến ông thích thú hơn bức tranh tuyệt đẹp mà Emily và đàn mèo con đã khắc họa nên trong khu vườn Trăng Non lâu đời trang nghiêm ngào ngạt hương hoa này.
Họ không trò truyện hào hứng như thường lệ, và sự im lặng dệt nên một bầu không khí có phần kỳ dị giữa hai người. Đã từng có một đôi lần, trong cơn bốc đồng, ông Dean bất chợt nảy sinh cái khao khát điên rồ được vứt hẳn chuyến đi Ai Cập sang một bên mà ở lại nhà hết cả mùa đông; có lẽ sẽ tới Shrewsbury; ông nhún vai cười nhạo chính mình. Cô nhóc này đâu cần ông chăm lo cơ chứ… các quý bà quý cô ở trang trại Trăng Non là những người giám hộ cực kỳ hiệu quả. Cô vẫn chỉ là một đứa trẻ, bất chấp vóc dáng cao ráo mảnh mai và đôi mắt sâu thăm thẳm. Nhưng cái ngấn cổ trắng ngần của cô mới hoàn hảo làm sao chứ… cái viền môi cong cong đỏ thắm ngọt ngào kia mới quyến rũ biết nhường nào. Chẳng mấy chốc mà cô sẽ thành một người phụ nữ; nhưng không phải người phụ nữ dành cho ông; không phải dành cho gã Lưng Bình Priest khập khiễng vốn cùng thế hệ với cha cô. Đã hàng trăm lần, ông Dean tự nhắc nhở bản thân đừng biến mình thành một gã ngốc. Ông phải lấy làm thỏa mãn với những gì số phận đã trao cho ông – tình bạn và tình thương mếm của ngôi sao thanh tú này. Nhiều năm sau, tình yêu của cô sẽ là một điều kỳ diệu – dành cho một người đàn ông nào đó khác. Chắc chắn, ông Dean ấm ức nghĩ, cô sẽ lại lãng phí nó cho một gã lùn tốt mã nào đó trên thực tế sẽ chẳng xứng đáng nhận một nửa tình cảm đó.
Emily đang nghĩ không biết cô sẽ nhớ ông Dean da diết đến nhường nào; cô sẽ nhớ ông hơn bao giờ hết. Mùa hè đó, họ đã bầu bạn thân thiết xiết bao. Bất kể lần nào chuyện trò cùng ông, dẫu chỉ trong vài phút ngắn ngủi, cô cũng đều có cảm giác cuộc sống của mình trở nên phong phú hơn nhiều. Những câu châm ngôn thông minh, hóm hỉnh, hài hước và đẫm chất tròa phúng của ông luôn đáng cho người khác học hỏi. Chúng khơi dậy sự quan tâm; khiêu khích và truyền cảm hứng cho cô. Những câu ngợi khen thảng hoặc của ông giúp cô tự tin hơn. Ông luôn cuốn hút cô theo một cách lạ kỳ mà không ai trên thế giới này có thể làm được. Cô cảm nhận được điều đó, nhưng cô không tài nào phân tích cho rõ ràng được. Còn Teddy… cô ý thức được rõ ràng tại sao cô lại yêu quý Teddy. Chỉ đơn thuần xuất phát từ cái chất Teddy riêng của cậu thôi. Và Perry nữa… Perry là một cậu nhóc rám nắng tinh quái, vui nhộn, tính tình bộc trực và huênh hoang mà dù có cố ta cũng chẳng thể nào không yêu quý được. Nhưng ông Dean thì khác. Liệu có phải sức mê hoặc của ông bắt nguồn từ sự hấp dẫn của những điều chưa biết; của trải nghiệm; của sự hiểu biết khôn ngoan; của một trí tuệ được mài giũa mỗi ngày một thêm sắc sảo nhờ bao cay đắng đã trải qua trong cuộc đời; hay của những điều ông Dean biết rõ trong khi có thể cô sẽ chẳng bao giờ biết? Emily không sao trả lời được. Cô chỉ biết rằng nếu đem so sánh với ông Dean, tất cả những người khác đều có phần hơi nhạt nhẽo; thậm chí ngay cả Teddy cũng vậy, dù cô yêu quý cậu nhất. Ôi chao, đúng vậy, Emily không bao giờ mảy may nghi ngờ gì chuyện cô yêu quý Teddy nhất. Tuy nhiên, có vẻ như ông Dean lại thỏa mãn được phần nào bản chất tinh tế và phức tạp của cô mà nếu không có ông thì lúc nào nó cũng luôn trong tình trạng đói khát.
“Cảm ơn chú vì tất cả những gì chú đã dạy cho cháu, chú Dean ạ,” cô nói khi hai chú cháu dừng lại đứng bên cái đồng hồ mặt trời.
“Lẽ nào cháu nghĩ rằng cháu chẳng dạy ta điều gì cả, hả Sao Trời?”
“Làm sao có thể chứ? Cháu nhỏ như thế, ngây ngô như thế…”
“Cháu đã dạy ta cách cười không nhuốm vị cay đắng. Ta hy vọng cháu sẽ không bao giờ nhận ra đó là một ân huệ lớn lao đến mức nào. Đừng để người ta làm hư cháu ở Shrewsbury nhé, Sao Trời. Cháu đang quá háo hức vì được đi đến đó nên ta chẳng muốn dội một gáo nước lạnh vào làm gì. Nhưng ở Trăng Non này, cháu sẽ sống sung túc… dễ chịu hơn nhiều.”
“Chú Dean! Cháu muốn được học gì đó…”
“Học hành! Học hành đâu đồng nghĩa với việc bị nhồi sọ bằng môn đại số và thứ tiếng Latin hạng hai. Ông cụ Carpenter có thể dạy cháu nhiều hơn và bổ ích hơn hết thảy những tay mơ, cả nam lẫn nữ, ở trường trung học Shrewsbury.”
“Ở đây, cháu không thể tiếp tục đến trường được nữa,” Emily phản đối. “Cháu sẽ cô đơn lắm. Tất cả học sinh tầm tuổi cháu nếu không tới Queen hay Shrewsbury thì cũng sẽ ở nhà. Cháu không hiểu nổi chú, Dean ạ. Cháu cứ tưởng chú sẽ lấy làm mừng vì các bác ấy cho phép cháu đến Shrewsbury chứ.”
“Ta mừng chứ… vì điều đó mang lại niềm vui cho cháu. Chỉ có điều…những tri thức mà ta mong muốn cháu tiếp tục thu được sẽ chẳng hề được dạy trong các trường trung học, và cũng chẳng thể đo lường được bằng các bài thi cuối kỳ. Cho dù cháu có thu hoạch được bất kỳ điều giá trị nào ở bất kỳ trường học nào đi chăng nữa, thì đó cũng là nhờ cháu phải tự mình tìm tòi. Đừng để người ta biến cháu trở nên khác với con người thật của mình, thế thôi. Ta không nghĩ là họ sẽ làm được thế đâu.”
“Không, họ không làm thế được đâu ạ,” Emily quả quyết. “Cháu cũng giống như con mèo trong truyện của Kipling ấy – cháu bước đi trong sự cô đơn tự do, và vẫy cáo đuôi tự do mỗi khi đến nơi nào khiến cháu hài lòng. Bởi vậy nên những người nhà Murray mới nhìn cháu bằng ánh mắt ngờ vực như thế. Mọi người nghĩ là lẽ ra cháu lúc nào cũng nên có bầy đàn. Ôi chú Dean, chú sẽ viết thư thường xuyên cho cháu chứ? Chẳng ai hiểu cháu được như chú. Và cháu đã quen với sự hiện diện của chú quá rồi, đến nỗi chẳng thể nào thiếu vắng chú được.”
Emily nói – và nghĩ trong lòng – về điều này một cách khá đơn giản, nhưng khuân mặt xương xương của ông Dean đỏ bừng lên. Họ không chào tạm biệt nhau – theo đúng như thỏa thuận bấy lâu giữa hai người. Ông Dean vẫy tay chào cô.
“Chúc cháu mỗi ngày đều may mắn,” ông nói.
Emily chỉ trao cho ông nụ cười chậm rãi huyền bí quen thuộc của mình…ông đã đi rồi. Khu vườn có vẻ cô đơn biết bao dưới ánh chiều tà xanh nhạt, với những cây trúc đào đang bung hoa trắng xóa như những bóng ma thấp thoáng chỗ này một ít, chỗ kia một ít. Cô vô cùng mừng rỡ khi nghe tiếng huýt sáo của Teddy vang lên trong rừng cây bụi của ông John Ngạo Mạn.
Vào buổi tối cuối cùng trước khi xa nhà, cô đã tới thăm thầy Carpenter và xin thầy góp ý về mấy bản thảo cô để lại cho thầy đọc và phê bình tuần vừa rồi. Trong số đó có mấy câu chuyện mới nhất, được cô sáng tác ngay trước khi bà Elizabeth đưa ra tối hậu thư. Riêng về vụ phê bình thì thấy Carpenter lúc nào cũng rất sẵn lòng đóng góp ý kiến, và lần nào thầy cũng nói thẳng thừng chẳng chút kiêng nể gì; nhưng thầy rất công bằng, và Emily luôn tin tưởng vào những nhận định của thầy, ngay cả khi thầy nói những điều nhất thời như dao sắc cứa vào tâm hồn cô.
“Câu chuyện tình này chẳng có gì hay ho cả,” thầy nói thẳng thừng.
“Con cũng biết đây không phải câu chuyện con muốn viết,” Emily thở dài.
“Chẳng có câu chuyện nào tuân theo ý muốn hết,” thầy Carpenter nói. “Trò sẽ không bao giờ viết được thứ gì có thể khiến trò thực sự hài lòng, cho dù nó có thỏa mãn những người khác đi chăng nữa. Về chuyện tình yêu, trò không thể sáng tác chúng được, vì trò không thể cảm nhận được chúng. Đừng cố gắng viết bất cứ thứ gì trò không thể cảm nhận được… rồi sẽ thành thất bại thôi…’những tiếng vọng chẳng có giá trị gì hết’. Này, còn câu chuyện này nhé, chuyện về bà cụ này này. Cũng không đến nỗi nào. Hội thoại thông minh đấy…thắt nút đơn giản và ấn tượng. Và ơn Chúa, trò có khiếu hài hước đấy. Theo ta thì đó là lý do chủ yếu khiến trò không giỏi viết truyện tình yêu. Chẳng người nào có thể viết được truyện tình yêu nếu người ta không có khiếu hài hước đích thực.”
Emily không hiểu tại sao lại vậy. Cô thích viết truyện tình…và chúng là những câu chuyện bi thương ủy mị vô cùng.
“Shakespeare có thể đấy chứ ạ,” cô bướng bỉnh đáp.
“Trò khó lòng được xếp vào cùng đẳng cấp với Shakespeare,” thầy Carpenter nói khô khốc.
Emily đỏ bừng hết mặt mày.
“Con biết là con không được như thế. Nhưng chính thầy nói là chẳng có ai mà.”
“Và ta vẫn giữ ý kiến đó. Shakespeare là ngoại lệ càng làm sáng tỏ quy tắc này. Mặc dù chắc chắn khiếu hào hước của ông ấy không được vận dụng khi ông ấy viết Romeo và Juliet. Tuy nhiên, hãy quay lại với Emily ở trang trại Trăng Non nào. Câu chuyện này – chà, một người trẻ tuổi nếu vẫn chưa bị ô uế thì có thể đọc truyện này.”
Dựa vào cách uốn giọng của thầy Carpenter, Emily ý thức được thầy không đánh giá cao câu chuyện cô viết. Cô giữ im lặng trong lúc thầy Carpenter nói tiếp, phẩy tay gạt những bản thảo quý giá của cô sang bên chẳng chút e dè.
“Cái này xem chừng na ná tác phẩm bắt chước một cách kém cỏi phong cách Kipling. Dạo gần đây trò đọc truyện của ông ấy hả?”
“Vâng ạ.”
“ Ta cũng đoán thế. Đừng cố bắt chước Kipling. Nếu nhất thiết phải bắt chước, thì bắt chước Laura Jean Libbey ấy. Ngoại trừ tên truyện ra thì cái này chẳng có gì hay ho cả. Một câu chuyện hư cấu vặt vãnh sặc mùi đọa đức giả. Và Tài sản chôn vùi không phải là một câu chuyện; nó chỉ là cái máy. Nó kêu cót két. Không một giây một phút nào nó có thể khiến ta quên đi thực tế nó là một câu chuyện. Bởi vậy nên nó không phải một câu chuyện.”
“Con đang cố viết một truyện sát với thực tế,” Emily cãi lại.
“Ái chà, đó mới chính là lý do. Tất cả chúng ta đều nhìn cuộc sống thông qua một ảo tưởng – ngay cả với người bị vỡ mộng nhiều nhất trong chúng ta. Chính vì vậy, nếu các sự kiện quá sát với thực tế thì chúng sẽ chẳng thuyết phục được ai hết. Để xem nào – Gia đình Madden - lại thêm một nỗ lực bám vào chủ nghĩa hiện thực nữa. Nhưng nó chỉ là bức ảnh chụp chứ không phải chân dung.”
“Những chuyện thầy vừa nói chẳng thuận tai chút nào,” Emily thở dài.
“Nếu chẳng ai nói bất cứ điều gì không thuận tai thì thế giới này ắt hẳn sẽ dễ chịu lắm, nhưng nó cũng sẽ rất nguy hiểm,” thầy Carpenter bắt bẻ lại. “Trò đã nói với ta trò muốn nghe phê bình chứ không cần lời đường mật. Tuy nhiên, cũng có đôi chút đường mật dành cho trò đây. Ta đã giữ nhận xét này để nói sau cùng. Chút khác biệt tương đối ổn, và nếu không sợ làm hỏng trò thì ta hẳn sẽ nói rằng nó quả là xuất sắc. Sau mười năm nữa, trò có thể viết lại truyện này và biến nó thành một tác phẩm ra trò. Đúng vậy, mười năm… đừng có nhăn mặt, Ngọc Bích. Trò có tài năng; và trò có sự nhạy cảm ngôn ngữ tuyệt vời… lần nào trò cũng tìm được cách dùng từ đắt nhất… đó là món quà vô giá. Nhưng trò cũng phạm phải một vài lỗi tệ hại. Những chỗ in nghiêng này này… chừa cái thói ấy đi, Ngọc Bích, chừa cái thói ấy đi. Và một khi đã xa rời hiện thực thì trò phải kiềm chế trí tưởng tượng của mình chứ.”
“Giờ thì nó bị kiềm chế rồi đấy ạ,” Emily ủ rũ nói.
Cô kể lại cho ông nghe về thỏa thuận giữa cô và bà Elizabeth. Thầy Carpenter gật gật đầu.
“Tuyệt.”
“Tuyệt!” Emily nhắc lại, giọng vô hồn.
“Phải. Đó đúng là thứ trò cần đấy. Nó sẽ dạy trò cách kiềm chế và tiết kiệm. Trong ba năm ấy, hãy bám sát hiện thực và thử xem trò có thể hiểu gì về chúng. Hãy để cho vương quốc tưởng tượng được yên mà bám chặt vào cuộc sống bình thường.”
“Làm gì có cái gọi là cuộc sống bình thường chứ ạ,” Emily nói.
Thầy Carpenter nhìn cô một lúc lâu.
“Trò nói đúng… quả là không có,” thầy nói chậm rãi. “Nhưng người ta vẫn luôn băn khoăn vì ta hiểu về điều đó mới ít ỏi làm sao. Chà, cứ tiếp tục đi…tiếp tục đi…cứ đi theo con đường trò đã chọn… và tạ ơn thần thánh vì đã cho trò tùy ý bước trên con đường đó.”
“Bác Jimmy nói chẳng ai có thể làm gì tùy ý khi sau lưng có đến cả nghìn bậc tổ tiên.”
“Ấy vậy mà người ta cứ bảo ông ấy ngốc nghếch đấy,” thầy Carpenter lầm bầm. “Tuy nhiên, có vẻ như các bậc tổ tiên của trò không đặt cho trog một lời nguyền đặc biệt nào. Họ chỉ đơn giản đặt ra cho trog mục tiêu hướng tới các đỉnh cao, và họ sẽ chẳng đời nào để trò sống thanh thản khi vẫn chưa thực hiện được điều đó. Cứ gọi nó là tham vọng đi…hay khát vọng…cacoethes scribendi…muốn gọi là gì cũng được. Dưới sự khiêu khích… hay sự quyến rũ của nó… người ta phải không ngừng leo lên cao…cho tới khi thất bại… hoặc…”
“Thành công,” Emily nói, hất mái tóc đen nhánh ra đằng sau.
“Amen,” thầy Carpenter nói.
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian